04-18-2019, 10:30 AM
(This post was last modified: 06-13-2019, 03:12 AM by Angela2801.)
Trong bài viết này, Luận Văn 24 sẽ chia sẻ với bạn về khái niệm công chức. Trong trường hợp bạn không thể tự làm hoặc không có thời gian làm, hãy tham khảo dịch vụ làm luận văn thuê thạc sĩ của Luận Văn 24.
Công chức là một thuật ngữ được dùng từ rất sớm trong quản lý nhà nước ở nước ta. Trong Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành về qui chế công chức đã qui định rõ “nghĩa vụ, quyền lợi của công chức cùng các thể lệ về tổ chức, quản trị và sử dụng các ngạch công chức trong toàn quốc”. Tuy nhiên trong thời kỳ đất nước còn chiến tranh, nên công tác quản lý xã hội nói chung, quản lý công chức nói riêng chưa đi vào nề nếp. Ngay cả nhận thức của xã hội về công chức cũng không rõ ràng, thiếu thống nhất bởi mọi người được tuyển dụng vào biên chế làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội, nhà máy, công trường, xí nghiệp đều được gọi chung là cán bộ, công nhân viên nhà nước. Đội ngũ này được hình thành từ nhiều nguồn như bầu cử, phân công sau khi ra trường, tuyển dụng, đề bạt… Như vậy phạm vi công chức của ta trước đây rất rộng, bao hàm nhiều đối tượng và không ổn định. Tình hình trên đã dẫn tới những khó khăn trong công tác quản lý, sử dụng công chức nước ta. Việc chưa xây dựng được đội ngũ chuyên gia có trình độ cao, chuyên sâu để quản lý tốt từng lĩnh vực là một trong các nguyên nhân cản trở quá trình phát triển kinh tế, xã hội nước ta.
Bước vào tiến trình đổi mới, Đảng ta đã chỉ rõ: “Những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ…đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân” [7, tr.17]. Bước khởi đầu để cải tiến quản lý nhân sự hành chính là Nghị định số 169/HĐBT ngày 25/5/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về công chức nhà nước, làm cơ sở cho việc tuyển chọn, sử dụng công chức nhà nước. Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu: “Đổi mới căn bản công tác cán bộ phù hợp với cơ chế mới. Phân định rõ cán bộ hoạt động theo nhiệm kỳ và cán bộ công chức chuyên nghiệp” [8, tr.43].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, Pháp lệnh Cán bộ, công chức bắt đầu được triển khai xây dựng và đến 9/3/1998 đã được UBTVQH ban hành. Có thể nói trong suốt thời gian xây dựng Pháp lệnh với hơn 40 bản dự thảo, thì điều khó khăn nhất đối với các thành viên có trách nhiệm tham gia xây dựng là khái niệm công chức. Trong bản dự thảo Pháp lệnh trình ngày 25/8/1995, Bộ Chính trị đã cho ý kiến chỉ đạo:
Ở nước ta, sự hình thành đội ngũ cán bộ, công chức có đặc điểm khác các nước. Cán bộ làm việc ở các cơ quan nhà nước, đảng và đoàn thể là một khối thống nhất trong hệ thống chính trị do đảng lãnh đạo. Bởi vậy cần có một pháp lệnh có phạm vi điều chỉnh chung đối với cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị bao gồm các công chức nhà nước (trong đó có công chức làm việc ở cơ quan quân đội, cảnh sát, an ninh…), cán bộ làm việc chuyên trách trong các cơ quan đoàn thể [35].
Nếu bạn không có thời gian làm luận văn, hãy tham khảo dịch vụ làm luận văn thuê thạc sĩ của Luận Văn 24 nhé.
Theo quan điểm chỉ đạo của Bộ chính trị, ban soạn thảo đã đưa vào Pháp lệnh 5 đối tượng điều chỉnh theo phạm vi cán bộ, công chức là:
Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị – xã hội;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -xã hội;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng;
Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
Đến năm 2003, theo yêu cầu cải cách bộ máy và công chức cho phù hợp với điều kiện mới, Uỷ ban Thường vụ quốc hội đã qui định lại công chức nhà nước là những công dân Việt Nam trong biên chế, bao gồm:
Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội;
đ) Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp;
Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, phó bí thư Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị- xã hội xã, phường, thị trờn (sau đây gọi chung là cấp xã);
>>>Mời bạn xem thêm bài viết khác: Mẫu lời cảm ơn luận văn tốt nghiệp hay và cảm động nhất
Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã [35].
Như vậy có thể thấy phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh đối với công chức nước ta là khá rộng, có đến trên 2 triệu người đang làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở. Việc xác định cụ thể các loại công chức theo pháp lệnh có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng và quản lý phát triển đội ngũ công chức ở nước ta.
Nếu bạn quá bận rộn và không có thời gian làm luận văn, hãy tham khảo dịch vụ làm luận văn thuê thạc sĩ của Luận Văn 24. Với kinh nghiệm hoạt động hơn 15 năm trong lĩnh vực này cùng với đội ngũ chuyên viên trình độ cao, Luận Văn 24 chắc chắn sẽ mang đến cho bạn sản phẩm hoàn hảo nhất.
Giá làm luận văn thạc sĩ sẽ tùy thuộc vào ngành/chuyên ngành của bạn, độ khó của đề tài và deadline của bạn. Hãy liên hệ với chúng tôi để được báo giá chi tiết.
Công chức là một thuật ngữ được dùng từ rất sớm trong quản lý nhà nước ở nước ta. Trong Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành về qui chế công chức đã qui định rõ “nghĩa vụ, quyền lợi của công chức cùng các thể lệ về tổ chức, quản trị và sử dụng các ngạch công chức trong toàn quốc”. Tuy nhiên trong thời kỳ đất nước còn chiến tranh, nên công tác quản lý xã hội nói chung, quản lý công chức nói riêng chưa đi vào nề nếp. Ngay cả nhận thức của xã hội về công chức cũng không rõ ràng, thiếu thống nhất bởi mọi người được tuyển dụng vào biên chế làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội, nhà máy, công trường, xí nghiệp đều được gọi chung là cán bộ, công nhân viên nhà nước. Đội ngũ này được hình thành từ nhiều nguồn như bầu cử, phân công sau khi ra trường, tuyển dụng, đề bạt… Như vậy phạm vi công chức của ta trước đây rất rộng, bao hàm nhiều đối tượng và không ổn định. Tình hình trên đã dẫn tới những khó khăn trong công tác quản lý, sử dụng công chức nước ta. Việc chưa xây dựng được đội ngũ chuyên gia có trình độ cao, chuyên sâu để quản lý tốt từng lĩnh vực là một trong các nguyên nhân cản trở quá trình phát triển kinh tế, xã hội nước ta.
Bước vào tiến trình đổi mới, Đảng ta đã chỉ rõ: “Những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ…đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân” [7, tr.17]. Bước khởi đầu để cải tiến quản lý nhân sự hành chính là Nghị định số 169/HĐBT ngày 25/5/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về công chức nhà nước, làm cơ sở cho việc tuyển chọn, sử dụng công chức nhà nước. Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu: “Đổi mới căn bản công tác cán bộ phù hợp với cơ chế mới. Phân định rõ cán bộ hoạt động theo nhiệm kỳ và cán bộ công chức chuyên nghiệp” [8, tr.43].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, Pháp lệnh Cán bộ, công chức bắt đầu được triển khai xây dựng và đến 9/3/1998 đã được UBTVQH ban hành. Có thể nói trong suốt thời gian xây dựng Pháp lệnh với hơn 40 bản dự thảo, thì điều khó khăn nhất đối với các thành viên có trách nhiệm tham gia xây dựng là khái niệm công chức. Trong bản dự thảo Pháp lệnh trình ngày 25/8/1995, Bộ Chính trị đã cho ý kiến chỉ đạo:
Ở nước ta, sự hình thành đội ngũ cán bộ, công chức có đặc điểm khác các nước. Cán bộ làm việc ở các cơ quan nhà nước, đảng và đoàn thể là một khối thống nhất trong hệ thống chính trị do đảng lãnh đạo. Bởi vậy cần có một pháp lệnh có phạm vi điều chỉnh chung đối với cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị bao gồm các công chức nhà nước (trong đó có công chức làm việc ở cơ quan quân đội, cảnh sát, an ninh…), cán bộ làm việc chuyên trách trong các cơ quan đoàn thể [35].
Nếu bạn không có thời gian làm luận văn, hãy tham khảo dịch vụ làm luận văn thuê thạc sĩ của Luận Văn 24 nhé.
Theo quan điểm chỉ đạo của Bộ chính trị, ban soạn thảo đã đưa vào Pháp lệnh 5 đối tượng điều chỉnh theo phạm vi cán bộ, công chức là:
Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị – xã hội;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -xã hội;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng;
Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
Đến năm 2003, theo yêu cầu cải cách bộ máy và công chức cho phù hợp với điều kiện mới, Uỷ ban Thường vụ quốc hội đã qui định lại công chức nhà nước là những công dân Việt Nam trong biên chế, bao gồm:
Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội;
đ) Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp;
Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, phó bí thư Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị- xã hội xã, phường, thị trờn (sau đây gọi chung là cấp xã);
>>>Mời bạn xem thêm bài viết khác: Mẫu lời cảm ơn luận văn tốt nghiệp hay và cảm động nhất
Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã [35].
Như vậy có thể thấy phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh đối với công chức nước ta là khá rộng, có đến trên 2 triệu người đang làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở. Việc xác định cụ thể các loại công chức theo pháp lệnh có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng và quản lý phát triển đội ngũ công chức ở nước ta.
Nếu bạn quá bận rộn và không có thời gian làm luận văn, hãy tham khảo dịch vụ làm luận văn thuê thạc sĩ của Luận Văn 24. Với kinh nghiệm hoạt động hơn 15 năm trong lĩnh vực này cùng với đội ngũ chuyên viên trình độ cao, Luận Văn 24 chắc chắn sẽ mang đến cho bạn sản phẩm hoàn hảo nhất.
Giá làm luận văn thạc sĩ sẽ tùy thuộc vào ngành/chuyên ngành của bạn, độ khó của đề tài và deadline của bạn. Hãy liên hệ với chúng tôi để được báo giá chi tiết.